micron như thế nào?
Với thời gian ở Việt Nam tương đối dài, ở góc cạnh vĩ mô, ông có nhận xét gì về sự phục hồi kinh tế của Việt Nam sau khi bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch COVID-19?
Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải nhìn vào giai đoạn 3 năm: 2020, 2021 và 2022. Cụ thể, vào năm 2020, Việt Nam đã rất may mắn khi đạt được mức tăng trưởng GDP dương.
Năm nay, mặc dù kinh tế Việt Nam trong quý 3 vô cùng khó khăn, nhưng tôi nghĩ rằng, GDP cả năm của Việt Nam vẫn sẽ tăng trưởng trong khoảng từ 2-3% so với năm 2020.
Đây là mức rất cao so với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Như bạn đã biết, rất nhiều quốc gia đã ghi nhận mức tăng trưởng GDP giảm, và Việt Nam đã rất may mắn khi tiếp tục tăng trưởng. Theo đó, thị trường chứng khoán cũng đã tăng trưởng ấn tượng trong 12-18 tháng qua. Động lực cho sự tăng trưởng của thị trường dường như đến từ các nhà đầu tư cá nhân trong nước.
Đây là khu vực đạt được những tăng trưởng mạnh mẽ trên thị trường chứng khoán, từ đó thúc đẩy toàn bộ thị trường.
Vì vậy, nền kinh tế đang rất mạnh mẽ và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm 2022. Chúng tôi kỳ vọng mức tăng trưởng kinh tế từ 5 – 7%, tương đương với mức tăng trước đại dịch.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán là hàn thử biểu của nền kinh tế, thường phản ánh trước 6 – 12 tháng so với thị trường thực. Với niềm tin rằng nền kinh tế sẽ tăng trưởng ở mức 5 đến 7% trong năm tới, do vậy thị trường chứng khoán đã vượt lên và tiến đến vùng 1.500 điểm, tính đến hôm nay.
Nhìn chung, thị trường chứng khoán phản ánh rất sát sự tăng trưởng cũng như mức độ phục hồi của GDP.
Ngoài ra, một yếu tố cần phải lưu ý là đồng nội tệ. Theo đó, tỷ giá của VND so với USD cũng đang có xu hướng tăng lên. Và điều đó tốt cho cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà đầu tư nội địa. Lãi suất thực vẫn ở mức dương. Nói cách khác, lãi suất tiền gửi tại ngân hàng cao hơn mức lạm phát.
Đó là những gì chúng tôi gọi là lợi tức thực tế, và điều đó là tích cực.
Tất cả những điều đó góp phần tạo nên một đồng nội tệ rất mạnh, mà chúng tôi tiếp tục thấy rằng nó sẽ tăng giá so với USD trong năm tới.
Tiếp xúc nhiều với các nhà đầu tư nước ngoài, theo ông, quan điểm đầu tư của họ với nền kinh tế Việt Nam trước và sau đại dịch COVID-19 có thay đổi hay không?
Từ khía cạnh đầu tư của chúng tôi, cần chia ra 2 kiểu đầu tư nước ngoài. Đầu tiên là các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, Như Samsung, LG, Intel, các công ty đa quốc gia đến Việt Nam đầu tư và họ đầu tư lâu dài.
Chúng tôi gọi đó là dòng tiền đầu tư lâu dài (sticky money). Những doanh nghiệp này xây dựng các nhà máy, tạo ra công ăn việc làm ở Việt Nam…
Nhóm nhà đầu tư còn lại được gọi là FII – nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài. Tôi cho rằng với nhóm các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, họ vẫn tiếp tục lạc quan vào triển vọng của Việt Nam.
Họ đánh giá những yếu tố như nhân khẩu học, vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và tiềm năng sản xuất và xuất khẩu dài hạn của Việt Nam là rất mạnh. Vì vậy, “ông lớn” như Intel đến Việt Nam xây dựng nhà máy sản xuất và xuất khẩu chip ra toàn cầu. Họ cảm thấy Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng và họ sẽ tiếp tục đến.
Còn với nhóm FII, như bạn có thể thấy, từ đầu năm 2021 đến nay, họ đã rút tiền ra khỏi thị trường, nhiều hơn những gì họ đã đầu tư vào. Tuy nhiên, đây không thực sự phản ánh bản chất của nền kinh tế Việt Nam. Nó chỉ phản ánh các lựa chọn và cơ hội mà các FII có trên khắp thế giới.
Giả sử như, bạn là một nhà đầu tư ở New York, bạn có các lựa chọn đầu tư vào Mỹ, vào Pháp, Anh, Úc và Việt Nam… Và bởi vì đại dịch xuất hiện, cơ hội mở ra cũng rất nhiều. Thị trường chứng khoán lúc lên, lúc xuống. Do đó, có rất nhiều cơ hội đầu tư trên khắp thế giới.
Và những gì đã xảy ra là các nhà đầu tư rút tiền ra khỏi Việt Nam và phân bổ vào các nền kinh tế khác.
Tuy nhiên, tôi cho rằng trong vòng 6, 12 hoặc 18 tháng tới, các nhà đầu tư FII sẽ nhận thấy rằng: “OK, chúng ta đã kiếm đủ tiền từ những cơ hội này”. Do vậy, họ sẽ quay lại đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Vậy đại dịch COVID-19, đặc biệt là làn sóng dịch lần thứ 4 tác động ra sao đến dòng vốn chảy vào Việt Nam?
Tôi nghĩ rằng dòng vốn đã có xu hướng rời đi, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút tiền ra, điều đó thực sự không thay đổi hồi quý 3/2021. Tôi nghĩ rằng sang năm 2022, xu hướng này sẽ thay đổi dần.
Tuy nhiên, cần lưu ý điều này. Khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục rút tiền ra khỏi Việt Nam, nhà đầu tư trong nước thay thế một cách mạnh mẽ. Thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện vào khoảng 1,2 đến 1,5 tỷ USD/ngày.
Trong khi đó, cách đây 18 tháng, giá trị thanh khoản chỉ đạt từ 150 đến 250 triệu USD/ngày. Như vậy các nhà đầu tư trong nước đã lấn át tác động tiêu cực từ việc nước ngoài rút ròng một cách đáng kể.
Ông là chuyên gia trong cả lĩnh vực đầu tư vào cổ phần đại chúng và vốn cổ phần tư nhân tại thị trường Việt Nam, cũng như một số thị trường mới nổi khác. Liên quan đến thị trường đầu tư vốn cổ phần tư nhân (PE), như mọi người đều thấy, Việt Nam đang dần trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân trên thế giới. Trước hết, ông có thể giải thích qua về định nghĩa PE của mình, với nhiều người chưa hiểu rõ về thuật ngữ này?
Tôi nghĩ mỗi doanh nghiệp sẽ có những định nghĩa PE khác nhau. Nhưng nhìn chung, định nghĩa của chúng tôi về vốn cổ phần tư nhân là thế này. Tư nhân có nghĩa là chúng tôi có thể thương lượng cơ hội đề đầu tư vào một doanh nghiệp.
Doanh nghiệp ở đây có thể là doanh nghiệp gia đình, doanh nghiệp chưa niêm yết, hoặc thậm chí là đã niêm yết, miễn là chúng tôi có thể thương lượng một giao dịch riêng tư với doanh nghiệp.
Chúng tôi gọi đó là giao dịch tư nhân. Chúng tôi mang tiền mặt hoặc vốn vào doanh nghiệp, đổi lại chúng ta nhận được vốn cổ phần trong doanh nghiệp. Đấy là về phần định nghĩa.
Về phần sản phẩm, những sản phẩm mà chúng tôi sử dụng theo vốn cổ phần tư nhân có thể ở dạng nợ có thể chuyển đổi. Cụ thể, có thể là trái phiếu chuyển đổi, vốn chủ sở hữu nợ có thể chuyển đổi, vốn cổ phần ưu đãi.
Có rất nhiều loại sản phẩm mà chúng tôi có thể nắm giữ khi đầu tư vào donah nghiệp. Nhưng quan trọng hơn cả, chúng tôi cũng có thể thương lượng với những giao dịch tư nhân. Ngoài ra, chúng tôi có quyền thực hiện thẩm định. Việc chúng tôi có thể mang đến 4 hãng kiểm toán lớn để thực hiện thẩm định tài chính.
Chúng tôi cũng sẽ thực hiện thẩm định về mặt pháp lý. Chúng tôi cũng sẽ thực hiện thẩm định về ESG, tức là thẩm định về môi trường, xã hội và quản trị để đảm bảo chúng tôi có thể hiểu rõ doanh nghiệp mà mình đầu tư.
Nó giống như việc bạn mua một chiếc xe hơi. Trước khi bạn mua xe, bạn muốn kiểm tra chiếc xe đó, hay mang thợ của mình đến xem xe. Thẩm định cũng như vậy.
Yếu tố thứ ba trong vốn cổ phần tư nhân là chúng tôi có thể tham gia vào hội đồng quản trị của công ty, hoặc một bộ phận quản lý của công ty.
Chúng tôi có thể tuyển Giám đốc tài chính, hoặc giúp họ tuyển một người để phát triển sản phẩm.Chúng tôi có thể trở thành thành viên trong hội đồng quản trị. Vì vậy, đó là một khoản đầu tư dài hạn. Chúng tôi gắn bó với doanh nghiệp từ 5 đến 10 năm, và chúng tôi không mua một hay 2 cổ phiếu. Chúng tôi mua 10%, 20%, 30% cổ phần một công ty.
Đó là các khoản đầu tư lớn, dài hạn được đàm phán tư nhân vào các doanh nghiệp này.
Vậy trong 15 năm qua, thị trường vốn cổ phần tư nhân đã thay đổi như thế nào?
Tôi nghĩ rằng, yếu tố thay đổi rõ ràng nhất mà mọi người có thể thấy được trong vòng 15 năm qua chính là kích cỡ của các thương vụ. Thời điểm tôi mới bắt đầu đầu tư PE ở Việt Nam, giá trị mỗi giao dịch trung bình chỉ khoảng từ 5-10 triệu USD.
Hiện nay, giá trị mỗi giao dịch mà VinaCapital thực hiện đã tăng lên khoảng 50 đến 100 triệu USD, tức là tăng khoảng 10 lần. Sự thay đổi thứ hai đó là kỹ năng quản lý. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp tư nhân đã được cải thiện đáng kể.
Tôi nghĩ lý do là nhiều nhà quản lý trước đó đã tích luỹ kinh nghiệm, hoặc từ khi làm việc với những doanh nghiệp Việt Nam, hoặc là công ty đa quốc gia, sau đó họ điều hành công ty riêng.
Hoặc những người quản lý này là những người có cơ hội được học tập và có bằng cấp ở Mỹ, hoặc Anh, Úc… và đã từng làm việc ở những quốc gia đó.
Đến nay, họ trở lại điều hành một số doanh nghiệp gia đình hoặc doanh nghiệp tư nhân. Bởi vậy, chất lượng quản lý được cải thiện đáng kể.
Vậy khi COVID-19 xảy ra thì sao? Ông có thấy xu hướng đầu tư vào thị trường PE ở Việt Nam chậm lại, hay bị ảnh hưởng ra sao?
Đúng là hoạt động trong thị trường PE tại Việt Nam đã chậm lại nhiều do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Lý do rõ ràng nhất là nhiều công ty đa quốc gia, hoặc các quỹ đầu tư PE toàn cầu không thể đến Việt Nam.